Quá trình Thủy_lực_cắt_phá

Theo Cơ quan Bảo vệ Môi sinh Hoa Kỳ (EPA), thuỷ lực cắt phá là phá trình hỗ trợ một giếng dầu, khí tự nhiên đạt được khai thác tối đa. EPA định nghĩa quá trình rộng hơn bao gồm thu thập nguồn nước, xây dựng giếng, hỗ trợ giếng, và xử lý chất thải.[10]

Phương pháp

Một vết nứt thuỷ lực được tạo ra bằng cách bơm chất lỏng cắt phá vào giếng khoan với tỉ lệ đủ để tăng áp suất ở độ sâu mục tiêu (determined by the location of the well casing perforations), để tăng građien nứt vỡ (građien áp suất) của đá.[11] građien nứt vỡ được định nghĩa là áp suất tăng lên trên đơn vị độ sâu có liên quan đến khối lượng riêng, và thường được đo bằng pound trên inch vuông, trên foot vuông, hoặc bar và các đơn vị khác. Khi đá nứt vỡ, dung dịch cắt phá thấm vào đá làm tăng dần vết nứt. Các vết vỡ được định vị khi áp suất giảm cùng với sự giảm ma sát, có liên quan đến khoảng cách từ giếng. Người vận hành thường cố duy trì "chiều rộng vết nứt", hoặc làm chậm lại sự giảm chiều rộng, bằng cách sử dụng proppant cắt phá thuỷ lực cùng với chất lỏng được bơm – , nó là một chất liệu như hạt cát, gốm, và các hạt khác, vì vậy giúp ngăn chặn vết nứt đóng lại khi ngừng bơm và áp suất bị loại bỏ. Sự nghiên cứu về sức bền của proppant trở nên quan trọng hơn ở vị trí sâu hơn vì áp suất và áp lực lên vết vỡ cao hơn. Vết vỡ được chống đỡ phải đủ độ thẩm thấu để cho phép dầu, khí, nước muối và chất lỏng cắt phá chảy đến giếng.[11]

Trong quá trình, dung dịch cắt phá rò rỉ (dung dịch cắt phá bị mất đi do thấm vào đá xung quanh) xảy ra. Nếu không được quản lý, nó có thể vượt quá 70% lượng dung dịch bơm vào. Việc này có thể làm phá huỷ chất nền, thay đổi cấu trúc hình học của vết vở, do đó giảm hiệu quả.[12]

Ví trí của một hoặc nhiều hơn các vết vỡ dọc theo hố khoan được điều khiển chặt chẽ bởi các phương pháp để bịt các lỗ hổng dung quanh hố khoan. Thuỷ lực cắt phá được thực hiện trong hố khoan được chống ống, và khu vực cần bị vỡ sẽ được tiếp cận bằng cách khoan thủng ống chống ở các vị trí đó.[13]

Thiết bị cắt phá thuỷ lực được sử dụng trong mỏ dầu khí thường bao gồm máy xay xi măng, một hoặc nhiều máy bơm cắt phá áp suất cao (thường là máy bơm loại triplex hoặc quintuplex) và đơn vị giám sát. Đi cùng với thiết bị là thùng chứa, hoặc các đơn vị cất giữ proppant, sắt xử lý áp suất cao, một đơn vị hoá học thêm vào, ống áp suất thấp linh động, và nhiều máy đo tốc độ dòng chảy, khối lượng riêng chất lỏng, và áp suất xử lý.[14] Chất hoá học thêm vào thường bằng 0,5% tổng thể tích chất lỏng. Thiết bị cắt phá vận hành trong một phạm vi áp suất và tốc độ bơm, có thể lên đến 100 mêgapascal (15.000 psi) và 265 lít trên giây (9,4 cu ft/s) (100 barrel trên phút).[15]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Thủy_lực_cắt_phá http://www.businessweek.com/magazine/like-fracking... http://geology.com/royalty/production-decline.shtm... http://books.google.com/books?id=NigwG_BYRsYC&pg=P... http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/0... http://www.kgs.ku.edu/PRS/Fracturing/Frac_Paper_SP... http://emf.stanford.edu/publications/emf_26_changi... http://energy.gov/sites/prod/files/2013/03/f0/Shal... http://www1.eere.energy.gov/geothermal/egs_animati... http://www.epa.gov/safewater/uic/pdfs/hfresearchst... //pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/17384744